Nghĩa vụ là gì? Khái niệm và đặc điểm của nghĩa vụ dân sự? Chẳng hạn

Nghĩa vụ là làm nghĩa vụ của bạn. Khái niệm nghĩa vụ được sử dụng khá phổ biến trong các luật khác nhau như luật dân sự (nghĩa vụ trả nợ…), luật hành chính (nghĩa vụ nộp phạt…), Luật hôn nhân và gia đình (nghĩa vụ của cha mẹ đối với con cái…). Bài viết phân tích, làm rõ vấn đề này:

1. Quy định chung về nghĩa vụ

Mối quan hệ phát sinh giữa một hoặc nhiều thực thể (được gọi là người có nghĩa vụ) để làm một công việc, thực hiện một hành động hoặc không làm một công việc, một hành động, vì lợi ích của một hoặc nhiều thực thể khác (được gọi là người có quyền). Khái niệm này thể hiện sự gắn kết giữa các bên liên quan đến các mối quan hệ cụ thể, trước hết là một phạm trù đạo đức phản ánh trách nhiệm của chủ thể – một cá nhân, một tập đoàn, một giai cấp, một dân tộc, đối với những việc cần làm trong các điều kiện xã hội cụ thể, trước một tình huống xã hội nhất định tại một thời điểm nhất định. Trong đời sống pháp luật nhà nước, nghĩa vụ là một khái niệm được sử dụng rất phổ biến trong lĩnh vực trao đổi dân sự, trong đó chủ yếu là hợp đồng dân sự (như hợp đồng mua bán, vay mượn…), hành vi dân sự đơn phương (như lập di chúc, giải thưởng hứa hẹn và tranh tài có thưởng…), chiếm hữu, sử dụng tài sản, hưởng lợi từ tài sản không có cơ sở pháp lý, gây thiệt hại do hành vi phạm pháp luật, thực hiện công việc mà không được phép …).

Bạn Đang Xem: Nghĩa vụ là gì? Khái niệm và đặc điểm của nghĩa vụ dân sự? Chẳng hạn

Đối với đối tượng của nghĩa vụ có thể là tài sản, công việc cần làm hoặc không được thực hiện, vì trong lĩnh vực nghĩa vụ dân sự, các dịch vụ này phải được quy định chính xác để tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện và tránh tranh chấp (ví dụ: hợp đồng mua bán tài sản, mua bán là một đối tượng cụ thể…). Ngoài ra, đối tượng của nghĩa vụ là các giá trị không phải là tài sản như nghĩa vụ công dân (nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ tôn trọng, tuân thủ pháp luật).

Thông thường, nghĩa vụ đi đôi với các quyền cũng giống như quyền công dân đi đôi với nghĩa vụ công dân: thực hiện nghĩa vụ là được hưởng quyền. Bên có nghĩa vụ phải thỏa mãn nhu cầu, yêu cầu và lợi ích của đơn vị khác có quyền như bên nợ có nghĩa vụ trả nợ, có quyền thu hồi khi khoản nợ đến ngày thanh toán đã thỏa thuận.

2. Khái niệm về dịch vụ dân sự

Nghĩa vụ, theo nghĩa chung nhất, là một cái gì đó, theo luật pháp hoặc vì lý do đạo đức, được yêu cầu hoặc không được thực hiện cho xã hội hoặc cho người khác. Theo cách hiểu này, nghĩa vụ là mối quan hệ giữa hai hoặc nhiều người, trong đó một bên phải hoặc không thể thực hiện một hoặc nhiều hành vi nhất định vì lợi ích của bên kia.

Việc một bên phải hoặc không được thực hiện một số hành vi nhất định có thể không được pháp luật bảo đảm của nhà nước, pháp luật không ép buộc người đó thực hiện, họ thực hiện công việc đó hoàn toàn theo lương tâm và danh tiếng của họ. Về mặt này, nghĩa vụ được điều chỉnh bởi các chuẩn mực đạo đức và thuộc về nghĩa vụ đạo đức. Ví dụ, giúp đỡ người già qua đường, giúp đỡ người tàn tật, nhường đường cho người già, phụ nữ trên xe buýt… là những công việc phải làm vì đạo đức.

Những công việc phải hoặc không được phép làm theo quy định của pháp luật là nghĩa vụ pháp lý chung. Đặc biệt, công việc phải làm hoặc không được phép làm theo quy định của pháp luật dân sự là nghĩa vụ dân sự.

Nghĩa vụ có thể được hiểu là một phần không thể tách rời trong nội dung của mối quan hệ pháp luật dân sự. Điều này bao gồm các hành vi mà một bên phải thực hiện vì lợi ích của bên kia như chuyển nhượng tài sản, thực hiện một công việc hoặc không thực hiện một công việc đã được xác định bởi các bên có mối quan hệ đó hoặc pháp luật, v.v. Bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ của mình khi có yêu cầu của bên kia.

Mặt khác, nghĩa vụ cũng được hiểu là quan hệ pháp lý, trong đó quyền dân sự, nghĩa vụ dân sự của các bên chủ thể phát sinh từ mối quan hệ đó phải được thực hiện theo sự bảo đảm của pháp luật.

Xem Thêm : Body shaming là gì? Body shaming người khác có bị xử phạt không?

Bộ luật Dân sự Việt Nam trong thời kỳ Pháp thuộc (Bộ luật Dân sự Bắc Bộ năm 1931 và Bộ luật Trung luật năm 1936) có các định nghĩa về nghĩa vụ dân sự:

“Nghĩa vụ dân sự là sự truyền thông về luật thực tế hoặc luật tự nhiên, buộc một hoặc nhiều người phải làm hoặc không làm bất cứ điều gì với một hoặc nhiều người.

Người bị ràng buộc với nghĩa vụ được gọi là con nợ, người được hưởng nghĩa vụ được gọi là chủ nợ”.

“Nghĩa vụ là người liên lạc về luật thực tế hoặc luật tự nhiên ràng buộc một hoặc nhiều người phải làm hoặc không làm bất cứ điều gì với một hoặc nhiều người, những người bị ràng buộc là con nợ hoặc trái chủ, những người có quyền là chủ nợ hoặc trái chủ.”

“Nghĩa vụ luật tự nhiên không thể được kiện tụng trước.a case.”

“Nghĩa vụ của luật tự nhiên là một nghĩa vụ không thể thực thi được.”

Theo quy định của hai Bộ luật Dân sự nói trên, ngoài nghĩa vụ thuộc về pháp luật thực tế, nó còn bao gồm nghĩa vụ thuộc về luật tự nhiên. Trên thực tế, nghĩa vụ của luật tự nhiên chỉ được đưa vào khái niệm để phù hợp với truyền thống và phong tục tập quán của người châu Á mà không có sự ép buộc của pháp luật. Do đó, mặc dù được quy định trong Bộ luật, nghĩa vụ của luật tự nhiên (nghĩa vụ tự nhiên) vẫn chỉ là một nghĩa vụ đạo đức.

Nghĩa vụ được quy định tại Điều 274 Bộ luật Dân sự 2015 như sau:

“Nghĩa vụ là hành vi mà theo đó một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển nhượng vật, chuyển nhượng quyền lợi, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc hoặc không thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi chung là bên có quyền).

3. Đặc điểm của nghĩa vụ dân sự

Xem Thêm : Ủy quyền là gì? Giấy ủy quyền kéo dài bao lâu?

Nếu nghĩa vụ được xem là quan hệ pháp luật dân sự thì so với quan hệ pháp luật dân sự khác thì quan hệ nghĩa vụ có một số đặc điểm sau:

Thứ nhất, nghĩa vụ là một ràng buộc pháp lý giữa ít nhất hai người ở hai phía đối diện của chủ thể.

Cho dù được hình thành bởi thỏa thuận hay theo luật, nghĩa vụ luôn là sự ràng buộc giữa các bên về việc phải làm gì hay không làm một việc nhất định. Bên nào phải làm công việc nếu không làm sẽ bị pháp luật xử phạt. Tùy từng trường hợp, mỗi bên thực hiện nghĩa vụ có thể có nhiều người hoặc nhiều chủ thể khác tham gia, nhưng cũng có thể mỗi bên chỉ có một người tham gia.

Thứ hai, quyền và nghĩa vụ dân sự của hai chủ thể lần lượt trái ngược nhau và chỉ có giá trị trong phạm vi xác định giữa các chủ thể.

Nghĩa vụ và quyền luôn đi đôi với nhau, nói về quyền là nói về nghĩa vụ. Tuy nhiên, đề cập đến quyền và nghĩa vụ trong quan hệ dịch vụ là đề cập đến sự đối lập, sự tương ứng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên. Cụ thể hơn, quyền của một bên sẽ là nghĩa vụ của bên kia và ngược lại. Một bên có bao nhiêu quyền đối với phạm vi, bên kia sẽ có bao nhiêu nghĩa vụ đối với phạm vi tương ứng. Mặt khác, trong mối quan hệ nghĩa vụ, cả chủ thể của quyền và chủ thể của nghĩa vụ luôn được xác định cụ thể, vì vậy quyền của một bên chỉ là nghĩa vụ của bên kia. Nói cách khác, mối quan hệ về quyền và nghĩa vụ trong mối quan hệ này không liên quan đến những người khác ngoài các thực thể được xác định cụ thể. Trong một số trường hợp, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong mối quan hệ này có thể liên quan đến người thứ ba nhưng người thứ ba đó phải là người đã được xác định cụ thể trước.

Ví dụ, trong quan hệ cho vay, người có quyền đòi nợ là người đã cho vay, bên có nghĩa vụ trả nợ là người vay, nhưng cũng có thể người phải trả nợ là người thứ ba (là người bảo lãnh đã được các bên xác định trước). Chính từ đặc điểm này, mối quan hệ pháp lý của nghĩa vụ được coi là một loại mối quan hệ pháp lý tương đối. Đồng thời, thông qua đặc điểm này, chúng ta thấy rằng mối quan hệ pháp lý của nghĩa vụ hoàn toàn khác với mối quan hệ pháp lý của quyền sở hữu. Trong quyền tài sản, chỉ có chủ thể của quyền được xác định cụ thể, vì vậy tất cả các thực thể khác có nghĩa vụ tôn trọng quyền công dân của chủ thể của quyền đó. Chủ sở hữu tự thực hiện các quyền đối với tài sản để đáp ứng nhu cầu của mình, vì vậy quyền trong mối quan hệ pháp lý của quyền sở hữu là một quyền tuyệt đối.

Thứ ba, mối quan hệ của nghĩa vụ là một mối quan hệ vi hiến, vì vậy quyền của các bên chủ thể là quyền thay đổi con người.

Nếu trong quan hệ sở hữu, quyền của chủ thể được thực hiện bằng hành vi của chính họ, thì trong mối quan hệ nghĩa vụ dân sự, quyền của một bên được thực hiện thông qua hành vi của chủ thể của bên kia. Nói cách khác, quyền của một bên chỉ được đáp ứng khi bên kia đã hoàn thành nghĩa vụ của mình. Mặt khác, nếu việc thực hiện quyền trong quan hệ tài sản là tác động trực tiếp đến một đối tượng thì trong nghĩa vụ dân sự, người mang quyền dân sự không được ảnh hưởng trực tiếp đến tài sản của bên có nghĩa vụ. Khi bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ đó thì người mang quyền chỉ được sử dụng các phương pháp theo quy định của pháp luật để gây ảnh hưởng và yêu cầu người đó thực hiện nghĩa vụ đối với mình. Nói cách khác, trong nghĩa vụ, quyền của một người là đối với người đó người có nghĩa vụ với bên kia và không có nghĩa vụ đối với tài sản của họ.

4. Quyền và nghĩa vụ của một số trường hợp trong giao dịch dân sự:

Trong việc mua bán tài sản khi các bên trong quan hệ mua bán tài sản có thỏa thuận áp dụng biện pháp bảo lưu quyền sở hữu thì pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ của bên mua tài sản được quyền sử dụng tài sản và hưởng lợi nhuận, lợi nhuận từ tài sản trong thời gian đặt trước. quyền sở hữu có hiệu lực. Khi giao kết hợp đồng dân sự nói chung và hợp đồng mua bán tài sản nói riêng, hầu hết các bên đều mong muốn đạt được thỏa thuận và tuân thủ thỏa thuận đó. Tuy nhiên, việc thực hiện hợp đồng trong thực tế không phải lúc nào cũng diễn ra theo mong muốn của các bên. Có thể do nhiều nguyên nhân và nguyên nhân khiến một trong các bên tham gia hợp đồng có thể vi phạm hoàn toàn các nghĩa vụ phát sinh theo thỏa thuận ban đầu của hai bên. Vi phạm này của một trong các bên sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của bên kia. Trong hợp đồng mua bán, khi người bán đã chuyển nhượng tài sản cho người mua nhưng người mua chưa thanh toán tiền thì rủi ro sẽ nhiều hơn cho người bán. Do đó, việc đạt được quyền và lợi ích của người bán hay không hoàn toàn dựa trên việc thực hiện hành vi của người mua.

Minh Khuê Law (nhà sưu tập & biên tập)

Nguồn: https://luatthienminh.com.vn
Danh mục: Luật Hỏi Đáp

Related Posts

An ninh nhân dân là gì? Xây dựng trận địa an ninh nhân dân và an ninh nhân dân

An ninh nhân dân là gì? Xây dựng trận địa an ninh nhân dân và an ninh nhân dân? Xây dựng trận địa an ninh nhân dân và an ninh…

Đặc điểm văn hóa dân tộc là gì? Biểu hiện và ý nghĩa của bản sắc văn hóa dân tộc?

Đặc điểm văn hóa dân tộc là gì? Biểu hiện và ý nghĩa của bản sắc văn hóa dân tộc? Đặc điểm cơ bản của bản sắc dân tộc Việt…

Ủy ban Thường vụ là gì? Các quy định của Đảng đối với Ban Thường vụ, bạn nên biết?

Khái niệm của Ủy ban Thường vụ (Tiêu chuẩn) là gì? Ủy viên thường trực tiếng Anh là gì? Trách nhiệm và quyền hạn của Ủy ban Thường vụ? Trách…

Bạo lực học đường là gì? Hiện trạng, nguyên nhân và giải pháp?

Bạo lực học đường là gì? Tình trạng bạo lực học đường hiện nay ở Việt Nam là gì? Nguyên nhân gây ra bạo lực học đường là gì? Giải…

Bảo vệ môi trường là gì? Nội dung và biện pháp bảo vệ môi trường?

Khái niệm bảo vệ môi trường là gì? Nội dung và biện pháp bảo vệ môi trường? Chung tay bảo vệ môi trường có phải là trách nhiệm của toàn…

BOT là gì? Luật đầu tư theo hình thức BOT?

BOT là gì? Luật đầu tư theo hình thức BOT? Trình tự và nội dung thực hiện hợp đồng BOT?Có thể bạn quan tâm 02 cách tra cứu mã số…

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *