Đó là thời kỳ cải cách cách mạng tư bản chủ nghĩa thành chủ nghĩa xã hội, bắt đầu từ khi giai cấp công nhân giành được quyền lực và kết thúc khi nền tảng của chủ nghĩa xã hội hoàn thành. Đặc điểm kinh tế của quá trình chuyển đổi lên chủ nghĩa xã hội là cơ cấu kinh tế đa ngành.
- Cổ phần là gì? Ví dụ về cổ phần? Đặc điểm của cổ phần trong công ty cổ phần
- Một lãnh địa phong kiến là gì? Đặc điểm kinh tế xã hội của miền?
- Tài khoản phí hàng năm là gì? Cách tra cứu tài khoản phí thường niên
- Đơn vị làm việc là gì? Làm thế nào để ghi lại thông tin đơn vị làm việc?
- Kinh doanh là gì? Quy định pháp luật về hoạt động kinh doanh
1. Khái niệm về các giai đoạn chuyển tiếp
Đó là thời kỳ cải cách cách mạng tư bản chủ nghĩa thành chủ nghĩa xã hội, bắt đầu từ khi giai cấp công nhân giành được quyền lực và kết thúc khi nền tảng của chủ nghĩa xã hội hoàn thành. Đặc điểm kinh tế của quá trình chuyển đổi lên chủ nghĩa xã hội là cơ cấu kinh tế đa ngành. Nhiệm vụ cơ bản của nhà nước trong giai đoạn chuyển tiếp, một mặt, là phát huy đầy đủ các quyền dân chủ của nhân dân lao động, chuyên quyền với mọi hoạt động chống xã hội chủ nghĩa, mặt khác, để từng bước đổi mới xã hội cũ và xây dựng một xã hội mới.
Bạn Đang Xem: Khái niệm về giai đoạn chuyển tiếp ? Tính tất yếu khách quan của quá trình chuyển đổi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam?
2. Tính tất yếu khách quan của quá trình chuyển đổi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
– Ở nước ta, quá trình chuyển đổi lên chủ nghĩa xã hội bắt đầu từ năm 1954 ở miền Bắc và từ năm 1975, sau khi đất nước hoàn toàn độc lập, cả nước thống nhất, cách mạng dân tộc – dân chủ nhân dân hoàn toàn thắng lợi trên phạm vi cả nước, cả nước tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, chuyển tiếp lên chủ nghĩa xã hội.
– Giai đoạn chuyển tiếp là giai đoạn lịch sử mà bất cứ quốc gia nào đi lên chủ nghĩa xã hội đều phải trải qua, kể cả đối với các nước đã có nền kinh tế rất phát triển, bởi ở các nước này, mặc dù lực lượng sản xuất đã phát triển cao, nhưng vẫn cần phải đổi mới, xây dựng quan hệ sản xuất mới, xây dựng nền văn hóa mới. Tất nhiên, đối với các quốc gia thuộc loại này, thuận lợi hơn về mặt khách quan, thời gian chuyển tiếp có thể ngắn hơn. Đối với nước ta, một nước nông nghiệp lạc hậu, đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chủ nghĩa tư bản, nó phải trải qua một giai đoạn chuyển tiếp lâu dài.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, quá trình chuyển đổi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là giai đoạn lịch sử, trong đó “nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là xây dựng nền tảng vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,… từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội, có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có nền văn hóa và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải đổi mới nền kinh tế cũ và xây dựng một nền kinh tế mới, trong đó xây dựng là nhiệm vụ then chốt và lâu dài” (Hồ Chí Minh: Cả Tập đoàn, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 10, tr. 13)
Quá trình chuyển đổi sang chủ nghĩa xã hội bỏ qua chủ nghĩa tư bản là một nhu cầu lịch sử đối với nước ta, vì:
– Cả thế giới đã bước vào kỷ nguyên chuyển đổi từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn đã khẳng định chủ nghĩa tư bản là một chế độ xã hội lỗi thời trong lịch sử, sớm muộn gì cũng phải được thay thế bằng một hình thức kinh tế xã hội cộng sản là giai đoạn đầu của xã hội xã hội chủ nghĩa. Ngay cả bây giờ, với những nỗ lực thích ứng với tình hình mới, chủ nghĩa tư bản thế giới vẫn đang đạt được tiến bộ nhưng không vượt ra ngoài những mâu thuẫn cơ bản của nó, những mâu thuẫn này không dịu đi mà ngày càng gay gắt và sâu sắc hơn. Chủ nghĩa tư bản không phải là tương lai của nhân loại. Đặc điểm của thời đại ngày nay là sự chuyển đổi từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Quá trình chuyển đổi xã hội cũ, xây dựng xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa không phải là quá trình cải cách, ý chí, mà là một quá trình cách mạng sôi động trải qua nhiều giai đoạn phát triển khách quan, phù hợp với quy luật lịch sử. Chủ nghĩa xã hội khoa học, tự do, dân chủ và nhân đạo mà nhân dân ta và nhân loại tiến bộ đang vươn tới để luôn đại diện cho những giá trị tiến bộ của nhân loại, đại diện cho lợi ích của người lao động, là một hình thức kinh tế – xã hội cao hơn chủ nghĩa tư bản. Quá trình cách mạng đó vì sự nghiệp cao cả là giải phóng con người, vì sự phát triển tự do và toàn diện của con người, vì sự tiến bộ chung của nhân loại. Theo dòng chảy của thời đại cũng có nghĩa là tuân theo quy luật phát triển tự nhiên của lịch sử.
– Cách mạng Việt Nam phát triển theo con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tính tất yếu trong lịch sử đó bắt nguồn từ những năm 20 của thế kỷ XX. Nhờ con đường này, đồng bào ta đã làm nên thành công cuộc Cách mạng Tháng Tám, tiến hành thành công hai cuộc kháng chiến để hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc. Ngày nay, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới có thể duy trì độc lập và tự do cho dân tộc, và đạt được các mục tiêu: người giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Việc lựa chọn con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta, từ đó lựa chọn chính lịch sử dân tộc, phù hợp với xu thế của thời đại. AIt cũng đã chứng minh sự chuyển đổi sang chủ nghĩa xã hội tmũ bỏ qua chủ nghĩa tư bản ở nước ta như một nhu cầu lịch sử.
Khả năng chuyển tiếp lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chủ nghĩa tư bản ở Việt Nam bao gồm các khả năng khách quan và chủ quan.
3. Về tính khách quan
Trước hết, có yếu tố của thời đại, đó là quá trình chuyển đổi sang chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
Yếu tố kỷ nguyên đóng một vai trò tích cực trong việc đánh thức các dân tộc và quốc gia, không chỉ làm cho quá trình chuyển đổi sang bỏ qua chủ nghĩa tư bản là không thể tránh khỏi mà còn cung cấp các điều kiện và khả năng khách quan cho quá trình chuyển đổi này. Việc quốc tế hóa sản xuất và sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng giữa các quốc gia, cũng như sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ về tính khách quan, đã tạo ra khả năng cho các nước kém phát triển hấp thụ và áp dụng vào đất nước mình lực lượng sản xuất hiện đại của thế giới và kinh nghiệm của các nước đi trước để thực hiện “con đường phát triển rút ngắn”. Xu hướng toàn cầu hóa, sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng giữa các quốc gia trên thế giới dù chứa đựng rủi ro và thách thức nhưng vẫn tạo ra những khả năng khách quan để vượt qua khó khăn về vốn và công nghệ hiện đại cho các nước kém phát triển, nếu có cách thức và chính sách đúng đắn. Trong điều kiện đó, cho phép và buộc chúng ta phải tận dụng cơ hội, lợi dụng, khai thác và sử dụng có hiệu quả những thành tựu mà nhân loại đã đạt được để rút ngắn quá trình chuyển đổi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
4. Trên cơ sở chủ quan:
– Việt Nam là quốc gia có dân số tương đối đông, nguồn nhân lực dồi dào, nguồn lực đa dạng. Nhân dân ta đã thành lập chính quyền nhà nước dân chủ nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, thực hiện nhiệm vụ lịch sử chế độ độc tài vô sản, xây dựng nền tảng chính trị, kinh tế ban đầu của chủ nghĩa xã hội. Cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo – một đảng giàu tinh thần cách mạng, sáng tạo, khoa học và trí tuệ, có định hướng đúng đắn và gắn bó với quần chúng – là yếu tố chủ quan có tầm quan trọng rất lớn, bảo đảm chiến thắng xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Xem Thêm : Xung đột là gì? Nguyên nhân và kỹ năng giải quyết xung đột?
– Nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã chiến đấu và hy sinh không chỉ vì mục đích giành lại độc lập dân tộc, mà còn vì một cuộc sống ấm áp, tự do và hạnh phúc. Những đòi hỏi đó chỉ có chủ nghĩa xã hội mới có thể đáp ứng được. Do đó, quyết tâm của nhân dân sẽ trở thành lực lượng vật chất có khả năng vượt qua mọi khó khăn, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
– Công cuộc đổi mới dân tộc do Đảng ta khởi xướng, lãnh đạo bắt đầu từ Đại hội Đảng VI đã thu được những kết quả bước đầu tích cực, giữ vững ổn định chính trị; tạo môi trường hợp tác đầu tư; phát triển kinh tế; cuộc sống của người dân được cải thiện… Điều đó củng cố và khẳng định rằng con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đã chọn của chúng ta là đúng đắn.
Nhận thức về quá trình chuyển đổi sang chủ nghĩa xã hội bỏ qua chủ nghĩa tư bản
Đây là con đường phát triển “rút ngắn” đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Về mặt chính trị, bỏ qua chủ nghĩa tư bản là bỏ qua giai đoạn thống trị tư sản, của kiến trúc thượng tầng tư bản. Về mặt kinh tế, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua sự thống trị của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, mà biết cách tiếp thu và kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, nhất là về khoa học công nghệ, để nhanh chóng phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Đó là việc rút ngắn thời gian thực hiện quá trình xã hội hóa sản xuất tư bản chủ nghĩa bằng con đường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nghĩa là rút ngắn đáng kể quá trình phát triển lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
– Chủ nghĩa tư bản trong lịch sử đã đóng một vai trò trong việc phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, xã hội hóa lao động dựa trên chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Quá trình này đã diễn ra một cách tự nhiên, tuần tự, kéo dài hàng thế kỷ cùng với sự đau khổ cho con người. Ngày nay, trong điều kiện lịch sử mới, chúng ta có thể đi theo con đường phát triển rút ngắn, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tránh cho nhân dân ta những đau khổ của con đường tư bản chủ nghĩa. Việc rút ngắn này được thực hiện thông qua việc sử dụng các biện pháp quy hoạch đồng thời với việc sử dụng các biện pháp thị trường do nhà nước quản lý theo định hướng xã hội chủ nghĩa trên cơ sở xây dựng và phát triển nền kinh tế nhà nước vững mạnh, đóng vai trò chủ đạo trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Việc rút ngắn này chỉ có thể được thực hiện thành công với điều kiện chính quyền thuộc về nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, cần nhận thức đầy đủ rằng việc rút lui ở đây không phải là một công việc có thể được thực hiện nhanh chóng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra: “Tiến tới chủ nghĩa xã hội không thể làm đượcne qua đêm. Đó là cả một công việc tổ chức và giáo dục.
Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, theo cách nói tóm tắt và mộc mạc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là: trước hết, để làm cho nhân dân lao động thoát nghèo, làm cho mọi người đều có việc làm, ấm áp và sống một cuộc sống hạnh phúc. Quan sát kỹ ý tưởng cơ bản đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong quá trình chuyển đổi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta khẳng định: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội:
– Thuộc sở hữu của nhân dân lao động.
– Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và sở hữu công đối với các phương tiện sản xuất chính.
– Có nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
– Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo khả năng của mình, tận hưởng sức lao động, có cuộc sống ấm áp, tự do, hạnh phúc, có điều kiện để phát triển bản thân.
– Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết, giúp đỡ nhau tiến bộ.
– Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với người dân các nước trên thế giới
Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở nước ta là: xây dựng một xã hội giàu có, vững mạnh, công bằng, dân chủ và văn minh.
Xem Thêm : Hợp tác xã là gì? Đặc điểm, ưu nhược điểm của hợp tác xã?
5. Nhiệm vụ kinh tế đặt ra trong quá trình chuyển đổi lên chủ nghĩa xã hội
Thứ nhất: Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước:
Đây được xem là nhiệm vụ trọng tâm của toàn bộ quá trình chuyển tiếp để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội và phát triển lực lượng sản xuất.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động kinh tế – xã hội từ sử dụng lao động chân tay sang sử dụng rộng rãi sức lao động với khoa học công nghệ hiện đại, tiên tiến, tạo năng suất lao động cao.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là nhiệm vụ chuẩn mực của quá trình chuyển đổi lên chủ nghĩa xã hội ở các nước kinh tế lạc hậu, chủ nghĩa tư bản chưa phát triển. Tuy nhiên, chiến lược, nội dung, hình thức, từng bước, tốc độ, biện pháp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của mỗi nước chuyển tiếp lên chủ nghĩa xã hội phải xuất phát từ điều kiện lịch sử, đặc thù của từng nước và từ bối cảnh quốc tế trong từng thời kỳ.
Chỉ khi hoàn thành nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, mới có thể xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho xã hội mới, nâng cao năng suất lao động lên mức chưa từng có để làm cho sự phong phú của các sản phẩm trở nên phổ biến, từ đó hiện thực hóa các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai: Xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa mới:
Quan hệ sản xuất mới phải từng bước được xây dựng phù hợp với tính chất và mức độ phát triển của lực lượng sản xuất mới. Nhưng việc xây dựng quan hệ sản xuất mới không thể thực hiện theo ý chí chủ quan mà phải tuân theo quy luật khách quan về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Nó xuất phát từ quan niệm rằng bất kỳ thay đổi nào trong quan hệ sở hữu phải là kết quả tất yếu của việc tạo ra lực lượng sản xuất mới. Do đó, việc xây dựng quan hệ sản xuất mới ở nước ta phải từng bước phát triển, theo hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong quá trình chuyển đổi lên chủ nghĩa xã hội ở các nước như chúng ta, chế độ sở hữu phải đa dạng, cơ cấu kinh tế phải có nhiều thành phần: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Cách thức phát triển nền kinh tế đa ngành có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tác dụng rất lớn trong việc huy động mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài, lấy nội lực làm chủ lực để xây dựng kinh tế và phát triển lực lượng sản xuất. Chỉ có thể cải cách các mối quan hệ sở hữu hiện có dần dần, bởi vì không thể làm cho lực lượng sản xuất hiện có tăng ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng một nền kinh tế sở hữu công đồng nhất một cách nhanh chóng.
Vì quan hệ sở hữu rất đa dạng, phải có nhiều hình thức phân phối và nhiều hình thức tổ chức quản lý hợp lý, cũng như việc xác lập tình trạng sở hữu của người lao động trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân phải diễn ra từng bước, dưới nhiều hình thức và đi từ thấp lên cao.
Thứ ba: Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế nước ngoài:
Đứng trước xu thế toàn cầu hóa kinh tế và tác động của cách mạngTrong khoa học công nghệ, nền kinh tế nước ta không thể là nền kinh tế khép kín mà phải tích cực mở rộng kinh tế nước ngoàiquan hệ omic. Đó là xu hướng tất yếu của thời đại, một vấn đề có tính chất chuẩn mực trong thời đại ngày nay. Chúng ta “mở cửa” nền kinh tế, đa dạng hóa và đa phương hóa quan hệ kinh tế quốc tế, nhằm thu hút các nguồn lực phát triển bên ngoài và phát huy lợi thế kinh tế trong nước, thay đổi mạnh mẽ công nghệ, cơ cấu ngành và sản phẩm… Mở rộng phân công lao động quốc tế, tăng cường liên doanh, liên kết và hợp tác, là cơ sở để tạo điều kiện và kích thích sản xuất trong nước phát triển và bắt kịp với tầm cỡ thế giới. Mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế phải căn cứ vào nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
Để làm được điều đó, cần từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế; tích cực khai thác thị trường thế giới; tối ưu hóa cơ cấu xuất nhập khẩu; tích cực tham gia hợp tác kinh tế khu vực và hệ thống thương mại đa phương toàn cầu; xử lý đúng mối quan hệ giữa mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại với độc lập, tự lực, bảo vệ an ninh kinh tế quốc gia.
Nói về tầm quan trọng của nhiệm vụ này, Đại hội lần X của Đảng nhấn mạnh: “Đẩy mạnh các hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu rộng và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ lợi ích của đất nước làm mục tiêu cao nhất.
Minh Khuê Law (chung)
Nguồn: https://luatthienminh.com.vn
Danh mục: Luật Hỏi Đáp