Hợp đồng lao động là văn bản thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động về việc làm có trả công, trong đó có 3 quy định điều kiện lao động, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động.
- Khoáng chất là gì? Chính sách kiểm soát ô nhiễm môi trường trong hoạt động khoáng sản
- Oda là gì? 05 điều cần biết về ODA
- Đơn vị làm việc là gì? Làm thế nào để ghi lại thông tin đơn vị làm việc?
- Nhận thức là gì? Nhận thức cảm giác là gì? Quan điểm về nhận thức
- Một sĩ quan là gì? Sĩ quan, hạ sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam?
1. Quy định chung về hợp đồng lao động
– Hợp đồng lao động được ký kết trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, phù hợp với quy định của pháp luật lao động.
Bạn Đang Xem: Hợp đồng lao động là gì? Nguyên tắc giao kết hợp đồng lao động?
– Hợp đồng lao động bao gồm các loại: hợp đồng lao động không xác định thời hạn; hợp đồng lao động xác định thời hạn từ đủ 12 tháng đến 36 tháng; Hợp đồng lao động theo mùa, theo mùa vụ hoặc theo công việc có thời hạn dưới 12 tháng.
– Hợp đồng lao động phải có các nội dung chủ yếu như. công việc phải làm, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, tiền lương, địa điểm làm việc, thời hạn hợp đồng, điều kiện về an toàn lao động, vệ sinh lao động, bảo hiểm xã hội cho người lao động.
– Hợp đồng lao động có hiệu lực kể từ ngày ký kết hoặc kể từ ngày hai bên thỏa thuận hoặc kể từ ngày người lao động bắt đầu làm việc.
– Trong quá trình thực hiện hợp đồng lao động, các bên tham gia hợp đồng có thể thỏa thuận sửa đổi nội dung hợp đồng lao động. Trường hợp có sự thay đổi một trong các nội dung chính của điều kiện làm việc thì người lao động có quyền ký kết hợp đồng lao động.
0- Chế độ giao kết hợp đồng lao động, thực hiện hợp đồng lao động, tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động, chấm dứt hợp đồng lao động do Bộ luật Lao động quy định năm 2019.
2. Phân tích khái niệm hợp đồng lao động?
Trong điều kiện kinh tế thị trường, để xây dựng lao động, người sử dụng lao động có thể chọn những cách khác nhau. Người sử dụng lao động có thể sử dụng lao động thông qua tuyển dụng lao động trực tiếp hoặc thuê ngoài của các doanh nghiệp khác. Tuy nhiên, trong hai phương pháp này, phương thức tuyển dụng lao động trực tiếp luôn là phương thức tuyển dụng cơ bản được nhà tuyển dụng sử dụng chủ yếu vì phương pháp này giúp doanh nghiệp có một lực lượng lao động ổn định và bền vững. Hơn nữa, việc thuê ngoài lao động của các doanh nghiệp khác chỉ được áp dụng trong trường hợp pháp luật cho phép với các điều kiện rất nghiêm ngặt, vì vậy người sử dụng lao động không thể luôn luôn áp dụng phương pháp này. Để có thể trực tiếp tuyển dụng lao động vào làm việc, giữa người sử dụng lao động và người lao động (người lao động) cần phải có những cam kết và thỏa thuận pháp lý để chính thức thiết lập mối quan hệ giữa các bên, thiết lập quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các bên. Hình thức pháp lý đó là hợp đồng lao động.
Trong lịch sử, luật lao động xuất hiện sau luật dân sự. Do đó, trước đó, các vấn đề pháp lý liên quan đến quan hệ lao động nói chung, hợp đồng trong lĩnh vực lao động nói riêng được điều chỉnh bởi các quy định của pháp luật dân sự. Do đó, trước đây trong hệ thống pháp luật của nhiều quốc gia (như Pháp, Đức, Trung Quốc…) gần như xác định hợp đồng lao động là một loại hợp đồng dân sự. Ví dụ, Điều 611 của Bộ luật Dân sự Đức năm 1896 nêu rõ:
“Thông qua hợp đồng, cả hai bên đã cam kết thực hiện một hoạt động, họ phải thực hiện hoạt động đó và bên kia có nghĩa vụ trả thù lao theo thỏa thuận.”
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của khoa học pháp luật lao động, quan hệ lao động cũng như nhận thức mới về sức lao động (với các yếu tố cụ thể) đã khiến khái niệm hợp đồng lao động trong khoa học pháp luật cũng như trong pháp luật các nước khác có sự thay đổi. Cùng với quan hệ lao động cá nhân, quan hệ lao động tập thể cũng luôn phát triển nhằm duy trì hòa bình công nghiệp trong doanh nghiệp. Do đó, ngoài quan hệ hợp đồng lao động (thỏa thuận trong hợp đồng lao động), các thỏa thuận của tập thể lao động với người sử dụng lao động hoặc đại diện người sử dụng lao động (như thỏa ước lao động tập thể) cũng rất được quan tâm và coi trọng. Các thỏa ước tập thể này cũng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến các thỏa thuận trong hợp đồng lao động. Do đó, ngoài luật dân sự vốn được coi là cơ sở pháp lý chung cho quan hệ hợp đồng, ngày nay quan hệ hợp đồng lao động còn được điều chỉnh bởi các quy định riêng trong luật lao động như Bộ luật Lao động (Việt Nam), Luật Tiêu chuẩn Lao động (Hàn Quốc, Nhật Bản…).
Mặt khác, nếu trong quá khứ ở một số nước, đặc biệt là các nước xã hội chủ nghĩa (trong thời kỳ kinh tế tập trung được trợ cấp), quan hệ lao động nặng về các yếu tố hành chính, vì vậy cơ chế điều tiết của pháp luật có xu hướng ủng hộ luật công, trong nền kinh tế thị trường, Khái niệm sức lao động đã thay đổi và quan hệ lao động đã trở lại bản chất thực sự của nó (trao đổi hàng hóa sức lao động). Do đó, đối với việc các nước phân chia hệ thống pháp luật thành luật công và luật tư nhân, họ đều xếp quan hệ hợp đồng lao động trong lĩnh vực luật tư nhân (như Đức, Pháp…). Mặc dù hệ thống pháp luật Việt Nam không bị phân chia theo hệ thống pháp luật công và pháp luật tư nhân (mà được phân chia theo hệ thống pháp luật), mối quan hệ của các cuộc họp lao động ngày càng được công nhận đúng bản chất của nó. Yếu tố đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động ngày càng được phát huy và tôn trọng như một yếu tố thay thế cho yếu tố can thiệp hành chính của Nhà nước. Sự can thiệp của Nhà nước vào quan hệ lao động nói chung và hợp đồng lao động nói riêng chỉ ở một mức độ nhất định nhằm bảo vệ người lao động (đối tượng có vị trí yếu kém trong quan hệ lao động) trong nền kinh tế thị trường.
Hợp đồng theo Từ điển tiếng Việt được hiểu:
“là một thỏa thuận giao ước giữa hai hoặc nhiều bên quy định các quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia, thường là bằng văn bản”.
BLDS 2015 tại Điều 385 quy định:
Xem Thêm : Mê tín dị đoan là gì?
“Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.”
Như vậy, về bản chất, hợp đồng phải là thỏa thuận, giao ước giữa các bên và nội dung hợp đồng phải là quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên (trong từng lĩnh vực cụ thể). Hợp đồng lao động cũng là một loại hợp đồng (trước đây hợp đồng lao động được coi là hợp đồng dân sự, sau này tách ra thành một loại hợp đồng lao động riêng), vì vậy nó cũng phải có bản chất của hợp đồng nói chung, đó là hợp đồng, được hình thành trên cơ sở thỏa thuận của các bên. Tuy nhiên, khác với hợp đồng dân sự hay các cuộc họp thương mại, thỏa thuận này phải là sự thỏa thuận giữa các chủ thể của quan hệ lao động (người lao động và người sử dụng lao động) và nội dung của nó phải liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ lao động như vấn đề việc làm, tiền lương, thời gian làm việc, bảo hiểm xã hội…
Điều 1 Pháp lệnh Hợp đồng lao động do Hội đồng Nhà nước ban hành ngày 30/8/1990 – văn bản quy phạm pháp luật đánh dấu cột mốc quan trọng trong hợp đồng lao động quy định:
“Hợp đồng lao động là sự thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động (gọi chung là người sử dụng lao động) về việc làm có trả lương, trong đó hai bên cam kết với nhau về điều kiện lao động và điều kiện lao động, về quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động.”
Bộ luật Lao động năm 2019 quy định:
“Hợp đồng lao động là sự thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động về việc làm có trả công, tiền lương, điều kiện làm việc, quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ lao động.”
Có thể thấy, khái niệm hợp đồng lao động trong Bộ luật Lao động năm 2019 về cơ bản quay trở lại định nghĩa về hợp đồng lao động theo Bộ luật Lao động năm 1994 nhưng có thêm yếu tố tiền lương. Định nghĩa này đã nêu những yếu tố cơ bản nhất của hợp đồng lao động, đó là về bản chất hợp đồng lao động là thương lượng, thỏa thuận và giao ước của các bên, đối tượng của hợp đồng lao động là người lao động và người sử dụng lao động, nội dung của hợp đồng lao động được trả lương việc làm, tiền lương và điều kiện làm việc, quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ lao động. Trong đó, Bộ luật Lao động năm 2019 cũng quy định:
“Trường hợp hai bên thỏa thuận bằng tên gọi khác nhưng có nội dung thể hiện việc làm có trả công, tiền lương và quản lý, điều hành, giảm giá của một bên thì được coi là hợp đồng lao động.”
Điều đó có nghĩa là việc xác định hợp đồng lao động là hợp đồng lao động không phụ thuộc quá nhiều vào tên hợp đồng mà phụ thuộc vào nội dung của nó. Nếu nội dung thỏa thuận của các bên tham gia hợp đồng có các điều khoản của hợp đồng lao động (các dấu hiệu của hợp đồng lao động thì vẫn xác định đó là hợp đồng lao động. Quy định này nhằm hạn chế tình trạng người sử dụng lao động “chuyển đổi” hợp đồng lao động sang các hình thức hợp đồng khác, bảo vệ quyền lợi của người lao động.
Quan điểm này cũng phù hợp với quan điểm của Tổ chức Lao động Quốc tế và pháp luật quốc gia về hợp đồng lao động. Theo Tổ chức Lao động Quốc tế, hợp đồng lao động được hiểu là: “Một thỏa thuận ràng buộc về mặt pháp lý giữa người sử dụng lao động và người lao động thiết lập các điều kiện và phương thức làm việc”* và dấu hiệu nhận dạng của mối quan hệ hợp đồng lao động được thể hiện trong Khuyến nghị 198. Hệ thống luật lao động của Pháp cũng quan niệm:
“Hợp đồng lao động là một thỏa thuận theo đó một người cam kết thực hiện một hoạt động theo chỉ đạo của người khác, phụ thuộc vào người đó và được trả lương.”
Ở Hàn Quốc, hợp đồng lao động được hiểu là: “Hợp đồng cỏ là về việc đồng ý rằng người lao động cung cấp sức lao động của mình cho người sử dụng lao động, trong khi người sử dụng lao động trả cùng một mức lương.g với lao động của người lao động”
Như vậy, có thể thấy, hợp đồng lao động thực chất là sự thỏa thuận giữa hai đơn vị, một là người lao động có nhu cầu làm việc, hai là người sử dụng lao động có nhu cầu thuê người lao động mua sức lao động. Đặc biệt, người lao động cam kết tự nguyện làm công việc cho người sử dụng lao động và đặt mình dưới sự quản lý của người sử dụng lao động và được người sử dụng lao động trả lương.
2.1 Nguyên tắc giao kết hợp đồng lao động?
1. Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác và trung thực.
2. Tự do giao kết hợp đồng lao động nhưng không được trái pháp luật, thỏa ước lao động tập thể và đạo đức xã hội.
2.2 Thẩm quyền giao kết hợp đồng lao động là gì?
Xem Thêm : Các biện pháp trừng phạt là gì? Các loại hình xử phạt của quy phạm pháp luật
1. Người lao động trực tiếp giao kết hợp đồng lao động, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
2. Đối với công việc theo mùa vụ hoặc công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng thì nhóm người lao động từ đủ 18 tuổi trở lên có thể ủy quyền cho một người lao động trong nhóm giao kết hợp đồng lao động; Trong trường hợp này, hợp đồng lao động phải được giao kết bằng văn bản và có hiệu lực tương tự như giao kết với từng người lao động.
Hợp đồng lao động do người được ủy quyền ký phải kèm theo danh sách ghi rõ họ tên, ngày tháng năm sinh, giới tính, nơi cư trú và chữ ký của từng người lao động.
3. Người giao kết hợp đồng lao động bên phía người sử dụng lao động là người thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp hoặc người được ủy quyền theo quy định của pháp luật;
b) Người đứng đầu cơ quan, tổ chức có tư cách pháp nhân theo quy định của pháp luật hoặc người được ủy quyền theo quy định của pháp luật;
c) Đại diện hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân hoặc người được ủy quyền theo quy định của pháp luật;
d) Cá nhân trực tiếp sử dụng người lao động.
4. Người giao kết hợp đồng lao động bên phía người lao động là người thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Người lao động từ đủ 18 tuổi trở lên;
b) Người lao động từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi khi có sự đồng ý bằng văn bản của người đại diện theo pháp luật của người lao động;
c) Người dưới 15 tuổi và người đại diện theo pháp luật của người đó;
d) Người lao động được người lao động trong nhóm ủy quyền hợp pháp để giao kết hợp đồng lao động.
5. Người được ủy quyền giao kết hợp đồng lao động không được ủy quyền lại cho người khác giao kết hợp đồng lao động.
2.3 Các quy định về giao kết nhiều hợp đồng lao động là gì?
1. Một người lao động được giao kết nhiều hợp đồng lao động với nhiều người sử dụng lao động nhưng phải bảo đảm thực hiện đầy đủ các nội dung đã giao kết.
2. Người lao động đồng thời giao kết nhiều hợp đồng lao động với nhiều người sử dụng lao động thì việc tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp được thực hiện theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp và an toàn, vệ sinh lao động.
Nguồn: https://luatthienminh.com.vn
Danh mục: Luật Hỏi Đáp