Hồi tố là gì? Quy định về hiệu lực hồi tố trong luật hình sự là gì? Một số quy định pháp luật có liên quan về thời điểm văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực và việc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật là gì?
Trong luật, đôi khi chúng ta nghe cụm từ hồi tố. Mặc dù không có tổ chức cụ thể, khái niệm hồi tố vẫn được sử dụng. Hiệu lực hồi tố của bộ luật hình sự thường được hiểu là ảnh hưởng của một hoặc nhiều quy tắc hình sự đối với một hành vi được quy định bởi pháp luật hình sự như một tội phạm được thực hiện trước khi luật hình sự đó có hiệu lực.
Bạn Đang Xem: Hồi tố là gì? Quy định về hiệu lực hồi tố trong luật hình sự là gì?
Tư vấn pháp luật về hiệu lực hồi tố trong luật hình sự: 1900.6568
* Căn cứ pháp lý
– Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;
– Bộ luật Tố tụng hình sự 2015;
– Văn bản hợp nhất 23/VBHN-VPQH ngày 15/7/2020 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
1. Hồi tố là gì?
Hồi tố là hiệu lực hồi tố của một hoặc nhiều quy phạm pháp luật hình sự đối với một hành vi được pháp luật hình sự quy định là tội phạm so với quy định của pháp luật hình sự tại thời điểm có hiệu lực. Điều này thường được áp dụng trong các văn bản pháp luật, và đặc biệt là luật hình sự là phổ biến hơn.
Ví dụ, Công văn hướng dẫn tội phạm bạc đã được áp dụng trước ngày Luật Hình sự 2015 có hiệu lực vào ngày 1 tháng 1 năm 2017.
Hồi tố là hình thức có giá trị pháp lý của văn bản quy phạm pháp luật. Đặc biệt, hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật được coi là khả năng thực thi của văn bản trong một thời kỳ nhất định, trên một không gian nhất định và với một số chủ thể pháp lý nhất định.
2. Quy định về hiệu lực hồi tố trong pháp luật hình sự:
Hiệu lực hồi tố của Luật Hình sự là việc áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự đối với một tội phạm được thực hiện trước khi nó có hiệu lực. Về nguyên tắc, Bộ luật Hình sự Việt Nam không có hiệu lực hồi tố, cũng như không có văn bản cụ thể xác định khái niệm hoặc đặc điểm hồi tố. Tội phạm chỉ đơn giản được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật, xuất phát từ nguyên tắc pháp lý “không phạm tội mà không có pháp luật”.
Theo nguyên tắc này, một đạo luật hình sự chỉ có hiệu lực thi hành đối với các tội phạm xảy ra khi đạo luật có hiệu lực và trước khi nó hết hiệu lực. Nếu hành vi được thực hiện trước pháp luật thì không thể áp dụng để buộc họ phải chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt, khi các quy định của Bộ luật hình sự mới có lợi hơn cho người phạm tội thì Bộ luật Hình sự cho phép áp dụng quy định này đối với những tội phạm đã thực hiện trước khi luật đó có hiệu lực. Quy định cho phép áp dụng hiệu lực hồi tố này vì lý do nhân đạo khi các quy định của luật mới khoan dung hơn luật cũ và cần phải bảo vệ lợi ích của Nhà nước xã hội và lợi ích của công dân, việc áp dụng hiệu lực hồi tố là cần thiết. Nhưng việc áp dụng hiệu lực hồi tố cũng bị hạn chế trong một số trường hợp.
Theo khoản 1 Điều 152 Văn bản hợp nhất 23/VBHN-VPQH ngày 15/7/2020, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định: Chỉ trong trường hợp nhất thiết phải bảo đảm lợi ích chung của xã hội, thực hiện quyền và lợi ích của tổ chức, cá nhân quy định tại luật, nghị quyết của Quốc hội, văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan mới ở trung ương được quy định có hiệu lực hồi tố. Cũng tại khoản 2 và khoản 3 Điều này quy định các trường hợp không được quy định có hiệu lực hồi tố:
– Quy định trách nhiệm mới đối với hành vi mà tại thời điểm thực hiện hành vi đó mà pháp luật không quy định trách nhiệm pháp lý.
Xem Thêm : Mê tín dị đoan là gì?
– Các khoản dự phòng trách nhiệm nặng hơn.
– Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp, chính quyền địa phương trong đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt không được quy định hồi tố.
Trong luật hình sự hiện hành, không có hiệu lực hồi tố đối với luật mới không có lợi cho người phạm tội. Đặc biệt đối với các luật mới có lợi cho người phạm tội, hiệu lực hồi tố được áp dụng. Cụ thể, tại khoản 2 và khoản 3 Điều 7 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì quy định như sau:
– Luật quy định một tội phạm mới, một hình phạt nặng hơn, một tình tiết tăng nặng mới hoặc giới hạn phạm vi tạm đình chỉ, miễn trách nhiệm hình sự, loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xóa án tích và các quy định khác bất lợi cho người phạm tội, sẽ không áp dụng đối với tội phạm đã thực hiện trước khi luật đó có hiệu lực thi hành.
– Quy chế bãi bỏ một tội phạm, một hình phạt, một tình tiết tăng nặng, quy định một hình phạt nFurthermore, một circumstan giảm nhẹ mớihoặc mở rộng phạm vi áp dụng hình phạt hưởng án treo, miễn trách nhiệm hình sự, loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, ân xá trước thời hạn có điều kiện, xóa án tích và các quy định khác có lợi cho người phạm tội, được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi Luật đó có hiệu lực thi hành. lực lượng thực thi.
Có thể thấy, pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành không áp dụng một cách thừa thãi nguyên tắc hồi tố mà chỉ cho phép áp dụng nguyên tắc này trong một số trường hợp cụ thể có lợi cho người phạm tội, việc quy định và áp dụng hiệu lực hồi tố là nguyên tắc thể hiện tính nhân văn của Nhà nước chúng ta.
3. Một số quy định pháp luật có liên quan:
* Thời gian hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật
Thời gian có hiệu lực của toàn bộ hoặc một phần văn bản quy phạm pháp luật quy định tại văn bản đó nhưng không quá 45 ngày, kể từ ngày thông qua hoặc ký ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước ở trung ương; chậm nhất là 10 ngày kể từ ngày được Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thông qua hoặc ký ban hành văn bản quy phạm pháp luật; chậm nhất là 07 ngày kể từ ngày được thông qua hoặc ký văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã.
Văn bản quy phạm pháp luật ban hành theo trình tự, thủ tục rút gọn có thể có hiệu lực kể từ ngày thông qua hoặc ký kết, phải được đăng tải ngay trên Cổng thông tin điện tử của cơ quan ban hành và phải được báo cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng; đăng Công báo nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chậm nhất là 03 ngày kể từ ngày công bố hoặc ký văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước ở trung ương; đăng Công báo tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chậm nhất là 03 ngày kể từ ngày được Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thông qua hoặc ký văn bản quy phạm pháp luật.
* Ngừng các văn bản quy phạm pháp luật
Văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực toàn bộ hoặc một phần cho đến khi có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong các trường hợp sau đây:
a) Đình chỉ thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 164, khoản 2 Điều 165, khoản 2 và khoản 3 Điều 166, khoản 2 và khoản 3 Điều 167, khoản 1 Điều 170 của Luật này. Trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định hủy bỏ thì văn bản hết hiệu lực; trường hợp không có quyết định bãi bỏ thì văn bản tiếp tục có hiệu lực;
b) Cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật quyết định đình chỉ hiệu lực toàn bộ hoặc một phần văn bản đó để kịp thời bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Thời điểm chấm dứt hiệu lực, tiếp tục hiệu lực của văn bản hoặc hết hiệu lực của văn bản phải được ghi rõ trong văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Xem Thêm : Khái niệm về tệ nạn xã hội là gì? Phân loại tệ nạn xã hội?
Quyết định đình chỉ thi hành hoặc quyết định xử lý văn bản quy phạm pháp luật phải được đăng trên Công báo và đưa tin trên phương tiện thông tin đại chúng chậm nhất là 03 ngày kể từ ngày ban hành quyết định.
* Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật hết hạn
Văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực toàn bộ hoặc một phần trong các trường hợp sau đây:
– Hết thời hạn hiệu lực ghi trong văn bản;
– Được sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế bằng văn bản quy phạm pháp luật mới của cơ quan nhà nước đã ban hành văn bản đó;
– Bãi bỏ bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
– Nếu văn bản quy phạm pháp luật hết hạn thì văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết thi hành văn bản đó cũng hết hiệu lực cùng lúc.
* Hiệu lực của không gian
Văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước ở trung ương có hiệu lực trong phạm vi cả nước và được áp dụng đối với tất cả các cơ quan, tổ chức, cá nhân, trừ trường hợp văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên có thẩm quyền hoặc điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau.
Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân ở đơn vị hành chính nào có giá trị trong phạm vi đơn vị hành chính đó và phải được quy định cụ thể trong văn bản đó.
Trường hợp có sự thay đổi về địa giới hành chính thì hiệu lực không gian và đối tượng áp dụng văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương được xác định như sau:
a) Trường hợp một đơn vị hành chính được chia thành nhiều đơn vị hành chính mới cùng cấp thì văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân ở đơn vị hành chính bị chia vẫn có hiệu lực đối với đơn vị hành chính mới cho đến khi Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân hành chính mới bộ phận ban hành văn bản quy phạm pháp luật thay thế;
b) Trường hợp nhiều đơn vị hành chính được sáp nhập vào một đơn vị hành chính mới cùng cấp thì văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân ở đơn vị hành chính bị sáp nhập vẫn có hiệu lực đối với đơn vị hành chính đó cho đến khi Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các đơn vị hành chính mới ban hành văn bản quy phạm pháp luật thay thế;
c) Trường hợp một phần diện tích địa lý, dân cư của đơn vị hành chính được điều chỉnh sang đơn vị hành chính khác thì văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân của đơn vị hành chính được mở rộng có hiệu lực đến phần điều chỉnh của lãnh thổ, địa bàn và địa bàn dân cư.
Nguồn: https://luatthienminh.com.vn
Danh mục: Luật Hỏi Đáp