Giá trị thặng dư là gì? Nguồn gốc, tính chất và ý nghĩa của giá trị thặng dư? Giá trị nguyên vẹn của học thuyết giá trị thặng dư?
- Môi trường kinh doanh như thế nào? Đặc điểm và vai trò của môi trường kinh doanh là gì?
- Khoáng chất là gì? Chính sách kiểm soát ô nhiễm môi trường trong hoạt động khoáng sản
- Quản trị là gì? Lấy một ví dụ minh họa? Sự khác biệt với quản lý là gì?
- Nhận dạng là gì, các loại tài liệu là gì?
- Tù chung thân là gì? Tù chung thân có phải là bản án tử hình không?
Thặng dư là một thuật ngữ trong lĩnh vực kinh tế mà mọi người đã nghe nói đến nhưng có thể không nhất thiết phải hiểu bản chất của nó.
Bạn Đang Xem: Giá trị thặng dư là gì? Nguồn gốc, tính chất và ý nghĩa của giá trị thặng dư?
Tư vấn pháp lý trực tuyến qua điện thoại: 1900.6568
1. Giá trị thặng dư là gì?
Giá trị thặng dư là mức độ mà doanh thu của một đầu vào được trừ vào nguồn cung của nó. D.Ricardo đã đưa ra ví dụ về việc nộp sơn cho các chủ đất sở hữu những mảnh đất màu mỡ.
Marx đã nghiên cứu giá trị thặng dư theo mức chi phí lao động, trong đó người lao động tạo ra nhiều giá trị hơn mức họ phải trả – một yếu tố được quy định rằng mức lương tối thiểu chỉ đủ để đảm bảo sự sống còn của họ với tư cách là công nhân. Theo Marx, việc bóc lột công nhân chỉ có thể được loại bỏ nếu nhà tư bản trả cho họ tất cả giá trị mới được tạo ra.
A.Marshall lập luận rằng về bản chất, tất cả các yếu tố thu nhập cao hơn chi phí nhân tố là doanh số bán hàng ngắn hạn. Vì vậy, theo ông, khi không có cơ hội nào khác để nhà sản xuất lựa chọn, toàn bộ phần thường dành cho nó là giá trị thặng dư.
Có 2 phương pháp chính để có được giá trị thặng dư:
- Phương pháp tạo ra giá trị thặng dư tuyệt đối.
- Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
– Phương pháp tạo ra giá trị thặng dư tuyệt đối: Là phương pháp tạo ra giá trị thặng dư bằng cách kéo dài thời gian lao động thặng dư trong khi năng suất lao động, giá trị lao động và thời gian lao động chắc chắn không đổi.
Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được từ việc kéo dài thời gian làm việc quá thời hạn lao động quy định. Ngày lao động kéo dài và thời gian lao động cần thiết là không đổi, dẫn đến tăng thời gian lao động dư thừa. Phương pháp tạo ra giá trị thặng dư tuyệt đối là kéo dài thời gian lao động thặng dư trong khi năng suất, giá trị và thời gian lao động chắc chắn không đổi. Cơ sở chung của chủ nghĩa tư bản là sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối.
Phương pháp tạo ra giá trị thặng dư tuyệt đối thường được sử dụng trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản. Đây là thời điểm lao động còn ở mức thủ công, năng suất lao động còn thấp. Lúc này, với lòng tham vô hạn, các nhà tư bản giở mọi chiêu trò để kéo dài ngày lao động nhằm nâng cao khả năng bóc lột sức lao động của những người làm thuê.
Tuy nhiên, sức người có hạn. Hơn nữa, vì công nhân đã chiến đấu quyết liệt để rút ngắn ngày lao động, các nhà tư bản không thể kéo dài ngày lao động vô thời hạn. Nhưng ngày lao động không được rút ngắn đến mức không thể tránh khỏi thời gian lao động. Một hình thức khác của phương pháp tạo ra giá trị thặng dư tuyệt đối là tăng cường độ lao động. Bởi vì tăng cường độ lao động tương tự như kéo dài thời gian làm việc trong ngày, nhưng thời gian lao động cần thiết là không đổi.
Xem Thêm : Nhà nước là gì? Các dấu hiệu đặc trưng của nhà nước là gì?
– Phương pháp tạo ra giá trị thặng dư tương đối: Là phương pháp tạo ra giá trị thặng dư bằng cách rút ngắn thời gian lao động không thể tránh khỏi bằng cách hạ thấp giá trị sức lao động, từ đó làm tăng thời gian lao động dư thừa trong điều kiện ngày lao động, cường độ lao động không đổi.
Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được từ việc rút ngắn thời gian lao động không thể tránh khỏi trên cơ sở tăng năng suất lao động. Tăng năng suất lao động xã hội, trước hết là trong sản xuất hàng tiêu dùng, khiến giá trị lao động giảm. Kể từ đó, thời gian lao động cần thiết cũng giảm. Khi độ dài của ngày lao động không đổi, thời gian lao động giảm cần thiết làm tăng thời gian lao động dư thừa (thời gian cần thiết để tạo ra giá trị thặng dư tương đối cho nhà tư bản).
Phương pháp tạo ra giá trị thặng dư tương đối là rút ngắn thời gian lao động không thể tránh khỏi bằng cách hạ thấp giá trị sức lao động. Qua đó làm tăng thời gian lao động dư thừa về số ngày lao động và cường độ lao động không đổi.
– Giá trị thặng dư siêu hạn ngạch là giá trị thặng dư thu được của doanh nghiệp sản xuất có giá trị đặc biệt thấp hơn giá trị xã hội, khi bán hàng hóa theo giá trị xã hội sẽ thu được một số giá trị thặng dư vượt trội so với các doanh nghiệp khác. Giá trị siêu thặng dư = Giá trị xã hội của hàng hóa – Giá trị cụ thể của hàng hóa. Giá trị siêu thặng dư là một dạng biến đổi của giá trị thặng dư tương đối; là động lực trực tiếp thúc đẩy tăng năng suất lao động.
Muốn đạt được nhiều giá trị thặng dư hơn và thống trị cạnh tranh, các nhà tư bản đã áp dụng những tiến bộ công nghệ vào sản xuất. Mục tiêu là cải tiến và hoàn thiện phương pháp quản lý kinh tế, nâng cao năng suất lao động. Kết quả giá trị cá bthe giá hàng hóa thấp hơn giá trị xã hội. Nhà tư bản áp dụng phương pháp này, hàng hóa khi bán ra sẽ thu được một số giá trị thặng dư nhiều hơn các nhà tư bản khác.
Giá trị thặng dư là một phần của giá trị thặng dư thu được vượt trội so với giá trị thặng dư thông thường của xã hội. Nếu bạn nhìn vào các nhà tư bản cá nhân, giá trị thặng dư là một hiện tượng tạm thời. Tuy nhiên, xét về toàn xã hội tư bản, giá trị siêu thặng dư là một hiện tượng tồn tại thường xuyên. Do đó, giá trị thặng dư là động lực mạnh mẽ nhất để các nhà tư bản cải tiến công nghệ và tăng năng suất lao động.
Cả giá trị thặng dư tương đối và giá trị thặng dư siêu hạn ngạch đều dựa trên việc tăng năng suất lao động. Tuy nhiên, 2 khác nhau ở chỗ giá trị thặng dư tương đối dựa trên sự gia tăng năng suất lao động xã hội. Trong khi giá trị của thặng dư dựa trên sự gia tăng năng suất lao động cá nhân.
Lý thuyết giá trị thặng dư được coi là phát minh quan trọng thứ 2 sau lập luận duy vật lịch sử của Marx. Vậy giá trị thặng dư là gì? Giá trị thặng dư về cơ bản là sự phản ánh quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Việc tạo ra và chiếm đoạt giá trị thặng dư phản ánh bản chất quan hệ của sản xuất tư bản chủ nghĩa (mối quan hệ bóc lột của nhà tư bản với những người lao động được thuê).
Hiện nay có nhiều khái niệm khác nhau về giá trị thặng dư. Tuy nhiên, bạn có thể hiểu nó một cách đơn giản như sau.
“Giá trị thặng dư là giá trị do người làm thuê mướn tạo ra vượt quá giá trị lao động của họ nhưng lại do nhà tư bản tiếp quản. Đối với sản xuất, nhà tư bản phải chi cho các phương tiện sản xuất và mua lao động. Mục đích của việc tiêu tiền là để thu một số tiền ngoài số tiền họ đã chi trong quá trình sản xuất. Tiền đi ra là giá trị thặng dư”.
Do đó, phần giá trị vượt ra ngoài giá trị lao động được tạo ra bởi những người lao động được thuê và bị chiếm đóng bởi các nhà tư bản được gọi là giá trị thặng dư.
Giá trị thặng dư được Marx nghiên cứu từ góc độ lãng phí lao động. Trong đó người lao động được thuê tạo ra nhiều giá trị hơn chi phí được trả cho họ. Đây là yếu tố được quy định bởi mức lương tối thiểu chỉ đủ để họ sống như người lao động. Đối với Marx, việc bóc lột sức lao động chỉ có thể được loại bỏ khi nhà tư bản trả cho họ tất cả giá trị mới được tạo ra.
Xem Thêm : Oda là gì? 05 điều cần biết về ODA
Giá trị thặng dư trong tiếng Anh là Giá trị thặng dư
2. Nguồn gốc giá trị thặng dư:
Để tiến hành sản xuất, nhà tư bản phải mua lao động và tư liệu sản xuất. Vì các phương tiện sản xuất và lao động được mua bởi nhà tư bản, trong quá trình sản xuất, công nhân làm việc dưới sự kiểm soát của nhà tư bản và sản phẩm được sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản.
Sản xuất tư bản chủ nghĩa là quá trình tạo ra giá trị gia tăng cho nhà tư bản khi năng suất lao động đạt đến một mức nhất định – chỉ một phần của ngày làm việc mà người lao động được thuê đã tạo ra giá trị bằng với giá trị lao động của chính mình.
Bằng sức lao động cụ thể của mình, người lao động sử dụng tư liệu sản xuất và chuyển giá trị của mình vào sản phẩm; và bằng lao động trừu tượng, người lao động tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị lao động, phần lớn trong số đó được gọi là giá trị thặng dư.
Giá trị hàng hóa (W) sản xuất bao gồm hai phần: giá trị của các phương tiện sản xuất lãng phí được bảo quản bằng lao động cụ thể và chuyển vào sản phẩm (giá trị cũ, ký hiệu c) và giá trị mới (v+m) được tạo ra bởi lao động tượng trưng của công nhân (lớn hơn giá trị hàng hóa của lao động). Phần giá trị mới được tạo ra bởi lao động sống ngoài giá trị của hàng hóa lao động, được nhà tư bản thu thập mà không trả tiền cho người lao động, được gọi là giá trị thặng dư (m). Như vậy, lao động sống là nguồn tạo ra giá trị thặng dư.
3. Tính chất, ý nghĩa của giá trị thặng dư:
Từ việc nghiên cứu Lý thuyết giá trị thặng dư của C. Marx, chúng ta thấy rõ ít nhất ba vấn đề lớn trong giai đoạn phát triển hiện nay của đất nước.
Thứ nhất, trong giai đoạn chuyển đổi của nền kinh tế ở nước ta, ở một mức độ nào đó, mối quan hệ bóc lột không thể xóa bỏ ngay lập tức, sạch sẽ theo cách tiếp cận giáo điều và xơ cứng cũ. Chúng ta càng phát triển nền kinh tế đa ngành, chúng ta càng thấy rõ rằng, chừng nào quan hệ bóc lột còn có tác dụng giải phóng sức mạnh sản xuất và thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, chúng ta phải chấp nhận sự hiện diện của nó.
Thứ hai, trong thực tế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, mọi phương án tìm cách định lượng mức độ bóc lột trong xây dựng chính sách, cũng như thái độ phân biệt đối xử với tầng lớp doanh nhân mới đều xa thực tế và không thể thực hiện được. Điều thuyết phục hơn hiện nay là quan hệ phân phối phải được thể chế hóa bằng pháp luật.
Chủ trương chủ trương của Đảng, Nhà nước, mỗi khi được thể chế hóa thành pháp luật và bộ quy tắc, không chỉ góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, lấy pháp luật làm công cụ, cơ sở để điều chỉnh các hành vi xã hội nói chung, mà còn bóc lột nói riêng. Những người tuân thủ pháp luật được xã hội công nhận và tôn vinh theo phương châm: người giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Trong nhận thức, quan điểm chung nên là cùng một mức độ khai thác được xã hội chấp nhận, tức là làm giàu hợp pháp. Trong quản lý xã hội, cần kiểm soát chặt chẽ thu nhập cá nhân và thu nhập doanh nghiệp, một mặt là phòng chống thất thoát thuế, mặt khác, đảm bảo công bằng trong phân phối thông qua Nhà nước và bằng “kênh” phân phối lại và điều tiết thu nhập xã hội. Tôi nghĩ rằng đây là cách tiếp cận bóc lột giúp chúng ta tránh những nhận thức giáo điều, không biện chứng về quan hệ bóc lột, cũng như ứng dụng nó trong một giai đoạn lịch sử cụ thể là giải phóng sức mạnh sản xuất, tạo động lực phát triển kinh tế và tích cực hội nhập thành công với nền kinh tế quốc tế.
Thứ ba, mặt khác, quyền lợi hợp pháp của cả người lao động và người sử dụng lao động cũng phải được pháp luật bảo vệ và có chế tài cụ thể để đảm bảo tính công khai, minh bạch và bền vững. Xung đột lợi ích trong quá trình sử dụng lao động là một thực tế, làm thế nào để phân xử các xung đột như vậy để tránh xung đột không cần thiết cũng là một yêu cầu cấp bách hiện nay, thể hiện trong bản chất của chế độ mới. Bảo vệ quyền lợi hợp pháp, quyền được pháp luật bảo vệ, của mọi bên trong quan hệ lao động là sự bảo đảm cho việc áp dụng hợp lý quan hệ khai thác trong điều kiện hiện nay, đồng thời cũng là những đóng góp cơ bản nhất cho cả quá trình hoàn thiện và xây dựng mô hình kinh tế thị trường định hướng xã. chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Lý thuyết về giá trị thặng dư của Marx ra đời trên cơ sở nghiên cứu về các phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Việc phát hiện ra giá trị thặng dư đã châm ngòi cho một cuộc cách mạng thực sự trong toàn bộ khoa học kinh tế, trang bị cho giai cấp vô sản vũ khí sắc bén trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản.
Nguồn: https://luatthienminh.com.vn
Danh mục: Luật Hỏi Đáp